Nhận bản tin Online
Bài viết mới
Làm gì để Đổi mới – Sáng tạo?
TĐH quá trình sản xuất

Làm gì để Đổi mới – Sáng tạo? 

                                                                                              Đinh Thế Phong

Bộ Khoa-Học&Công-Nghệ
dtphong@most.gov.vn

Mô hình thay đổi công nghệ thiết bị biến tần của nhà máy nước Thủ Đức 
– ảnh Suri Nguyen.

Đổi mới-sáng tạo (ĐMST) và hệ thống ĐMST đã được tất cả các nước và tổ chức quốc tế nhắc đến. Nhưng nhiều khi chỉ là sự rập khuôn theo một mô hình định sẵn, chung chung cho mọi nước, mọi trường hợp. Để thực sự có hiệu quả, ĐMST cần dựa trên các điều kiện cụ thể của riêng từng nước, từng giai đoạn. Dưới đây là một số nội dung cơ bản cho hệ thống ĐMST Việt Nam hiện nay.

ĐMST ở đây có nội hàm giống từ “Innovation” (nghĩa đen là Đổi-Mới), tức là chủ yếu nói về Công-Nghệ (CN) và đến sự gia tăng lợi nhuận từ các quá trình liên quan đến CN.
Chương trình ĐMST của Việt Nam cần lưu ý những điểm sau.
Thứ nhất, đưa Doanh nghiệp (phi nhà nước) đóng vai trò chính trong quá trình ĐMST công nghệ. Lý do vì Doanh-Nghiệp (DN) là nơi quan tâm nhất đến CN để gia lợi nhuận. Họ liên quan mật thiết tới phát triển, phát minh, ứng dụng, quản lý, mua sắm CN. DN sẽ trở thành nhà tài trợ, nhà đầu tư lớn nhất cho ĐMST CN và cũng là người thụ hưởng lớn nhất từ ĐMST CN. Nói cách khác: DN là người “nuôi’ CN và cũng là người gặt hái từ CN. Làm được việc này sẽ tránh được việc các cơ quan nhà nước phải làm các văn bản, quy định… mang nặng tính quản lý nhà nước để quản lý ĐMST trong CN, một việc cần mang tính thị trường. 
Thứ hai, chú trọng đến việc dùng cơ chế thị trường làm cơ sở cho tất cả các mối liên kết, các quan hệ liên quan đến CN. Ưu tiên quan tâm các mối liên kết, các quan hệ liên quan đến CN trước khi Sáng-tạo CN. Các mối liên kết, các quan hệ, cách quản lý liên quan đến CN ở ta đã chủ yếu do nhà nước thiết lập nên. Các cơ chế, mối quan hệ này ngày càng chứng tỏ là do ý chí của con người và như những môi trường “nhân tạo”, ít mang tính thực tế. Môi trường nhân tạo này ngày càng không thể duy trì được nữa. Với nền kinh tế thị trường và kinh doanh toàn cầu ngày một phát triển, các mối quan hệ và cách quản lý này ngày càng trở nên lỗi thời, ít mang tính hỗi trợ, thúc đẩy, mà ngược lại, trở nên cồng kềnh, kìm hãm các quá trình phát triển tự nhiên của CN và kém tương thích với các quan hệ quốc tế về CN. Cái “cây” CN, hay ĐMST CN, ngày càng khó phát triển trên môi trường sống nhân tạo, xa rời thực tế này. Vì vậy, các chương trình, dự án, đề tài về CN chỉ nên tiếp tục tiến hành khi các mối quan hệ, các cơ chế về CN đã mang tính thị trường. Nói cách khác, chỉ nên “bón” cho “cái cây” CN sau khi nó đã được “bứng” sang môi trường sống tự nhiên phù hợp, cho dù ban đầu có thể còn khô cằn hơn môi trường “nhân tạo”. Tránh việc bón (hay bao cấp) cho cái cây CN khi nó còn mọc trên mảnh đất nhân tạo. Khi cái cây CN đã được đặt đúng và bắt rễ vào môi trường tự nhiên của nó thì quan hệ giữa cây CN và môi trường sẽ tự nhiên phát triển và tự điều chỉnh qua tương tác với nhau, ít cần vai trò can thiệp của Con-Người.

Công nghệ xây bể chứa là yếu tố đầu tư lớn – ảnh Ngọc Lâm.

Tiếp theo, ngay cả khi các cơ chế chung đã mang tính thị trường, các CN khác nhau lại cần các liên kết khác nhau. Cũng như mỗi loại cây cần một tổ hợp những thành phần hóa-lý của đất khác nhau. Những mối liên kết CN này rộng hay hẹp là tùy theo cách quan sát. Nó có thể mở rộng ra đến các quan hệ, hay mô thức kinh tế-công nghệ (economic-technological paradigm). Ví dụ, không thể áp dụng thành công CN thương mại điện tử nếu không có các liên kết như hạ tầng CNTT, mô hình hóa các quy trình thương mại, cơ sở pháp lý như chữ ký điện tử, vv. Hay CN chế tạo ôtô không thể phát triển nếu thiếu các liên kết như hệ thống công nghiệp hỗ trợ, các chuỗi cung ứng, hệ thống đường xá, cầu, điều khiển gaio thông, vv phụ hợp. Hoặc, muốn phát triển công nghệ cao thì phải liên kết nhiều với các bên tham gia bên ngoài, phải gắn chặt vào các chuỗi cung ứng trên thế giới; Và, các chu trình trong công nghệ cao cũng diễn ra nhanh hơn chứ không như trong các công nghệ truyền thống. Đây là việc quan trọng cần làm để ĐMST.

Thứ ba, phải chú ý đến điều kiện bên ngoài nhiều hơn là xây dựng tiềm lực. Nước càng nhỏ, yếu thì càng cần phải thích nghi, đáp ứng với bên ngoài. Ta vẫn còn hoạch định dựa quá nhiều vào thực lực, khả năng chủ quan và ý muốn mà ít chú ý đến các điều kiện bên ngoài ràng buộc ta, cho phép ta chỉ được lựa chọn một số các khả năng rất hạn hẹp. Nếu biết các giới hạn của mình thì sẽ tránh được việc phung phí nguồn lực để làm các cái ta muốn mà nhất định không làm được (vì cái ta được phép làm nhỏ hơn rất nhiều so với cái ta muốn làm). Ngoài ra, nhận biết bên ngoài, thấy được các dòng chảy tất yếu, các xu hướng, các đóng-mở của các cơ hội cửa sổ, các quy luật vận động, các cuộc cách mạng hay đột phá và tiến hóa của CN sẽ giúp ta tìm ra con đường (có khi là duy nhất) cho phép tiến lên phía trước hay những giải pháp để đạt mục đích với ít tốn kém nhất. Nếu tính đến các yếu tố liên quan đến CN như: chu kỳ CN, đường cong tiến hóa CN, rào cản của thị trường CN, quy luật của dòng chuyển giao CN, phát triển tiệm tiến, hay đột biến của CN, các cuộc cách mạng CN, các “đứt đoạn” (discontinuities) hay các cửa sổ (windows) trong sự tiến hóa của công nghệ, các chuỗi cung ứng của từng CN, vv. thì ta sẽ thấy: khả năng lựa chọn của ta không nhiều nếu ta không muốn đi ngược các quy luật này.
Thứ tư, Chương trình ĐMST cần diễn ra chủ yếu ở Thị-trường, ở khu vực tư nhân, nhưng tốt nhất là do nhà nước hoạch định. ĐMST là làm gia tăng lợi nhuận từ các quá trình liên quan đến CN vì vậy hiệu quả nhất là ĐMST nằm trong quá trình tạo ra giá trị, hay nói khác là nằm trong Doanh-Nghiệp (tư nhân). Nhưng chương trình (hay hệ thống) ĐMST tối ưu là do nhà nước hoạch định, phát động và điều phối (hay là mô hình Từ-Trên-Xuống, top-down) vì nó đỏi hỏi rất nhiều nghiên cứu công phu mà tính chất ccủa hi tiêu công. Tức là, nhiệm vụ chính của cơ quan phụ trách ĐMST là tạo dựng, hỗ trợ cho Thị-Trường tư nhân của ĐMST chứ không phải bó gọn trong các cơ quan nhà nước. Ta quen với kỹ năng quản lý nhà nước nhưng chưa thạo về việc tạo ra thị trường, đặc biệt là thị trường CN với các mối liên kết đa ngành nhưng lại rất chuyên môn của nó. Ngoài kỹ năng tạo dựng thị trường, còn cần các kỹ năng liên ngành, quản lý tính phức tạp, quản lý rủi ro, vv. Những kỹ năng này chỉ có được ở một nhà nước với nền kinh tế thị trường đúng nghĩa. Tuy nhiên, nếu không thực hiện được theo phương án tối ưu, thì ĐMST cũng nên được triển khai Từ-Dưới-Lên (bottom-up) vì dù hiệu quả không bằng nhưng còn tốt hơn không có.
Thứ năm, bên cạnh các hoạch định cho nội địa, cần áp dụng hệ thống ĐMST mở để thích ứng với thị trường mở và để mở ra ngành kinh tế CN. Hệ thống ĐMST mở (open Innovation) tạo điều kiện cho các hợp công đoạn (không nhất thiết bao gồm toàn bộ chu trình CN). Ta chắc chắn có rất ít các chuỗi giá trị đồng bộ về CN mang tính cạnh tranh ở khu vực, thế giới. Nhưng chắc chắn ta cạnh tranh được ở một số công đoạn nhất định trong chuỗi giá trị liên quan đến CN. Chuyên tâm làm một số công đoạn về CN đó sẽ tạo ra một số ngành kinh tế về CN. Ví dụ, ta lập trình giỏi, làm phần mềm giỏi, làm nội dung số giỏi, vì vậy ta có ngành (kinh tế) công nghiệp phần mềm tốt. Những ngành kinh tế này có thể đọc lập, có ít các liên kết ngang trong nền kinh tế, không nhất thiết “bán” cho nội địa mà gắn vào các chuỗi cung ứng bên ngoài. Tương tự như vậy, nếu tìm hiểu thêm, sẽ phát hiện ra các công đoạn khác ở nhiều chuỗi giá trị khác nhau liên quan đến CN mà ta làm tốt, ví dụ: Sinh-Tin (Bio-Informatics), nano, thiết kế chip, vv. Các ngành kinh tế CN mang tính độc lập nhất định, không nhất thiết (và không nên) gắn với các liên kết nội địa, mà gắn với Thị-Trường Tri-Thức, nhân công chất xám ở bất cứ đâu mà nó sinh lợi nhiều nhất. Đó là cấu phần với tính khả thi cao trong nền Kinh Tế Tri Thức Việt Nam.

8-10-2011

Tài liệu tham khảo


– APCTT-ESCAP, 2011: Promotion of national innovation systems in countries with special needs.
– Bell, M. and K. Pavitt (1993b): Accumulating technological capability in
developing countries, Proceedings of the World Bank Annual Conference on Development Economics, 1992, Washington, D.C., World Bank.
– Freeman, C. (1994): Technological revolutions and catching up: ICT and the NICs, in J. Fagerberg and others (eds.), The Dynamics of Technology, Trade and Growth, Aldershot, U.K., Edward Elgar Publishing.
– Lall, S. (1992): Technological capabilities and industrialization, World Development, vol. 20, No. 2, Oxford, U.K., Pergamon Press.
– Lundvall, B. (1992): National Systems of Innovation: Towards a Theory of Innovation and Interactive Learning, London, Pinter Publishers.
– Pérez, C. (2001): Technological change and opportunities for development as a moving target, Cepal review 75, University of Sussex.

Related posts

Để lại một bình luận

Required fields are marked *