Tri thức, Khoa học-Công nghệ chỉ trở thành động lực chính hay tư liệu sản xuất trực tiếp cho nền kinh tế trong những điều kiện, cơ chế nhất định. Mô hình Đổi mới-Sáng tạo thay thế cho mô hình Khoa học-Công nghệ giữa những năm 80 của thế kỷ 20 đã giúp tri thức hoá thị trường và thị trường hoá tri thức. Đổi mới-Sáng tạo khắc phục được các hạn chế của mô hình cũ và tạo ra môi trường, công cụ, cơ chế mới cho phát triển.
Muốn cải tiến hệ thống, cần quan sát, phân tích chuỗi giá trị của hệ thống đó.
Ở các nhà nước với nền kế hoạch hóa tập trung, nhà nước là tác nhân chính (hay duy nhất) trong khoa học-công nghệ. Để thực hiện nhiệm vụ khoa học-công nghệ từ nghiên cứu đến ra các kết quả nghiên cứu, các “công đoạn” được sắp xếp liên tục, nối tiếp nhau theo một “quy trình” tuyến tính (xem hình 1).
Trong đó, đầu ra (output) của công đoạn trên là đầu vào (input) của công đoạn dưới và các công đoạn này cần cân đối, ăn khớp với nhau về thời gian, khối lượng…, VD: bao nhiêu người, đề tài nghiên cứu thì sẽ làm ra bao nhiêu kết quả nghiên cứu, với thời hạn bao lâu, các kết quả nghiên cứu cơ bản này được chuyển tiếp qua nghiên cứu ứng dụng, rồi tiếp đến sản xuất thử, vv. Trong mô hình này rất ít khi có các trao đổi-mua bán kết quả nghiên cứu đang trong quá trình nghiên cứugiữa các cơ quan khoa học-công nghệ, doanh nghiệp. Trong quá trình của chuỗi giá trị, rất ít khi có việc nhận input từ bên ngoài vào và đưa output ra ngoài. Như vậy, “Công-nghệ” hầu như gắn chặt vào và là công đoạn tiếp theo của “Khoa-học”. Vì tiếp nhận khối lượng output của khoa học, nên khối lượng công nghệ thường dự đoán được và không mấy lớn hơn khoa học. Đặc trưng của mô hình này là: Công nghệ được khởi tạo chủ yếu từ Khoa học. Đây là mô hình khoa học-công nghệ tuyến tính, hay mô hình “đóng” đặc trưng của các nền kinh tế dựa trên kế hoạch hóa tập trung.
Với cơ chế mở, đầu vào của “công nghệ” là kho tàng khổng lồ của khoa học thế giới, các bản quyền, sở hữu trí tuệ, đặc biệt từ các công nghệ chưa hoàn thiện (immature technologies), các tri thức nguồn mở, các bản quyền miễn phí do đã hết hạn… Rất nhiều doanh nghiệp tìm cách khai thác khoa học ngay ở những giai đoạn (tưởng như) chưa hoàn thiện, “lai ghép” các công nghệ để tạo ra cái mới, bán ra thị trường. Lúc đó, nơi chính “làm” công nghệ không phải ở các tổ chức nhà nước mà ở các doanh nghiệp với mục đích lợi nhuận. Đặc trưng của mô hình này là: Công nghệ được khởi tạo từ Doanh nghiệp+Thị trường. Chuỗi giá trị được “cắt’ ra rất nhiều các đoạn lẻ, đan xen nhau. Ở đó, các input được đưa “chen ngang” vào (không nhiết thiết từ công đoạn trước) và nhiều kiến thức được được đưa ngay ra thương mại hóa (không nhất thiết được chuyển tiếp xuống công đoạn tiếp theo). Toàn bộ quá trình trở nên “phi tuyến tính” và rất “mở”. Một điểm lý thú và có ý nghĩa đột phá về kinh tế của mô hình mở là: công đoạn dưới (và các doanh nghiệp bên ngoài) có phản hồi (feedback), đặt hàng, tài trợ cho người làm ở các công đoạn trên (khác với mô hình tuyến tính khi nhà nước tài trợ và đặt hàng là chính). Quan trọng hơn, khoa học cơ bản phía thượng nguồn (thường vẫn do nhà nước tài trợ ở mô hình tuyến tính) đã nhận được đặt hàng, tài trợ từ các công đoạn hạ nguồn và từ các doanh nghiệp bên ngoài. Như vậy, quá trình này không còn là một đường tuyến tính, một chiều mà là một chu trình khép kín, đa chiều. Điều này làm cho hệ thống có thể tự chủ về tài chính thông qua việc gắn hữu cơ vào thị trường + người tiêu dùng. Đây là điểm khác cơ bản giữa Hệ thống “Khoa Học-Công Nghệ-Đổi Mới” (Science-Technology-Innovation) và “Khoa Học-Công Nghệ” (Science-Technology) kiểu kế hoạch hóa. Thuật ngữ “Khoa Học-Công Nghệ-Đổi Mới” thực ra vẫn chưa nêu sát quá trình trên vì hai lý do. Một là: nó vẫn chưa nhắc đến yếu tố “thị trường+doanh nghiệp”. Hai là: nó vẫn thể hiện tư duy gắn chặt “Công-nghệ” vào “Khoa-học” trong khi các nhà hoạch định chính sách đều chủ trương giải phóng sự “cưỡng hôn” giữa Khoa-học và Công-nghệ. Chính vì vậy, thuật ngữ miêu tả sát nhất quá trình này là “Đổi Mới-Sáng Tạo” (Open Innovation).
Mô hình tuyến tính, cách phát triển theo chiều dọc (vertical development) của nền sản xuất đại công nghiệp từ trên 400 năm trước không đáp ứng được với sự hội tụ (convergence), trộn lẫn của các loại công nghệ, các thể chế, chức năng, quan điểm, văn hóa, … của nền sản xuất linh hoạt cuối thế kỷ 20.
Công Nghệ “mềm” ngày càng quan trọng.
Tính đa ngành, liên ngành và đa chức năng
Sự thâm nhập, hòa trộn các ngành vào nhau làm các thể chế, tổ chức, cá nhân mang tính liên ngành cao mà cơ chế cũ không thể quản lý được. Tính đa ngành thể hiện ở hai mặt. Thứ nhất, một tổ chức bao gồm nhiều bộ phận, nhiều ngành khác nhau. VD, phòng nghiên cứu trí tuệ nhân tạo gồm chuyên gia từ nhiều lĩnh vực như lý, hóa, sinh, phân tâm học, xã hội học, văn học, nhân chủng học…Thứ hai, một tổ chức có nhiều mặt hoạt động, có nhiều “tư cách pháp nhân” khác nhau.
Mô hình quản lý cũ dựa vào định hướng quốc gia, có nền tảng, xuất phát điểm và mục đích là quốc gia. Định hướng quốc gia thể hiện ở: hoạch định theo biên giới địa lý quốc gia, các ngành trong quốc gia phải “cân đối” với nhau (đại học đào tạo ra đủ kỹ sư, bác sỹ… cho cả nước, nghiên cứu khoa học để các nhà máy trong nước đưa vào áp dụng…).
Thực ra, phân định quốc gia chủ yếu mang tính lịch sử và không mấy liên quan đến tính hợp lý và hiệu quả về kinh tế. Định hướng quốc gia không nhất thiết đem lại những tối ưu về hiệu quả kinh tế. Vì vậy, khi văn hóa chung sống của các quốc gia, các định và công nghệ cho phép, người ta cùng nhau sản xuất-kinh doanh theo hiệu quả kinh tế mà không nhất thiết theo biên giới quốc gia. Chuỗi cung ứng ngành năng lượng, tài nguyên thiên nhiên, phần cứng, phần mềm máy tính, ngành công nghiệp nặng, hàng tiêu dùng… hẳn sẽ không có hiệu quả như ngày nay nếu nó không mang tính toàn cầu mà lại chỉ bó hẹp trong từng quốc gia, hay từng châu lục.
Điều tưởng chừng như nghịch lý của kinh tế thị trường mở, đặc biệt trong khoa học-công nghệ-tri thức là: khi càng nhiều người đem tài sản của mình ra để dùng chung trong xã hội thì nguồn lợi mà xã hội thu được sẽ càng gia tăng. Một minh họa đơn giản (tuy chưa thật sự đầy đủ) là: khi mọi người không đầu cơ, tích trữ hàng hóa thì hàng hóa sẽ ít tồn kho hơn, được đưa ra lưu thông nhiều hơn, quay vòng nhanh hơn…và xã hội sẽ có lợi hơn. Hay, khi mọi người đều đem món ăn nhà mình ra mời cả xã hội thì mọi người đều được thưởng thức nhiều hơn. Nhưng với hàng hóa tri thức thì nguồn lợi mang lại sẽ lớn hơn nhiều so với hàng hóa hữu hình, vì sự “lai ghép”, tạo ra các tổ hợp mới sẽ lớn hơn nhiều so với phép cộng thuần túy. Đây chính là thế mạnh của xã hội mở. Đó là nguyên nhân vì sao Google bỏ hàng trăm triệu đôla để đưa tri thức của những thư viện lớn cho dùng miễn phí trên internet. Học viện Công nghệ Massachusetts (MIT) và nhiều trường đại học hàng đầu thế giới đưa học liệu mở lên mạng, các công ty chấp nhận/hưởng thụ việc tự do nhảy việc của các nhân tài, các câu lạc bộ bóng đá buồn/vui khi đưa/đón các cầu thủ tài năng… Công nghệ, nguồn tri thức dùng chung sẽ làm ‘chiếc bánh” phúc lợi xã hội ngày càng lớn ra, xóa bỏ cách hành xử “Tổng Bằng Không” (tức: anh được thì tôi mất, sao cho tổng giữa chúng ta bằng không, Zero-sum) và phát triển văn hóa “cạnh tranh trong hợp tác” (hay tranh-hợp, coo-petition).