Đa dạng dự án và nhà cung cấp
Cho đến nay, có khoảng 48 dự án điện gió đã đăng ký trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Trung và Nam bộ, với tổng công suất đăng ký gần 5.000 MW, quy mô công suất của các dự án từ 6 MW đến 250 MW. Tuy nhiên, hiện nay do suất đầu tư của dự án điện gió vẫn còn khá cao, trong khi giá mua điện gió là khá thấp 1.614 đồng/ kWh (tương đương khoảng 7,8 UScents/ kWh) theo Quyết định số 37/2011/QĐ-TTg12, cao hơn 310 đồng/ kWh so với mức giá điện bình quân hiện nay là 1.304 đồng/ kWh, được xem là chưa hấp dẫn các nhà đầu tư điện gió trong và ngoài nước.
Do vậy, cho đến nay mới chỉ duy nhất một dự án điện gió ở Xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận là hoàn thiện giai đoạn 1 (dự kiến nâng tổng công suất lên 120 MW trong giai đoạn 2 từ 2011 đến 2015), với công suất lắp đặt 30 MW (20 tuabin gió x 1,5 MW mỗi tua bin). Chủ đầu tư dự án là Công ty Cổ phần Năng lượng Tái tạo Việt Nam (Vietnam Renewable Energy Joint Stock Company – REVN). Tổng mức đầu tư của dự án lên đến 2.000 tỷ đồng (tương đương khoảng 80 triệu USD), các thiết bị tuabin gió sử dụng của Công ty Fuhrlaender Đức. Dự án chính thức được nối lên lưới điện quốc gia vào tháng 3 năm 2011. Theo nguồn tin nội bộ, sản lượng điện gió năm 2011 đạt khoảng 79.000 MWh.
Trên đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận, dự án điện gió lai tạo với máy phát điện diesel (wind-diesel hybrid system), của Tổng Công ty Điện lực Dầu khí, thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam), có tổng công suất là 9 MW (gồm 3 tuabin gió x 2 MW mỗi tuabin + 6 máy phát diesel x 0,5 MW mỗi máy phát) đã lắp đặt xong và đang trong giai đoạn nối lưới. Các tuabin gió sử dụng của hãng Vestas, Đan Mạch. Giá bán điện đang đề xuất thông qua hợp đồng mua bán điện với giá 13 US cents/kWh. Giá mua điện này được đánh giá là hấp dẫn do đặc thù dự án ở ngoài đảo. Tương tự, một dự án điện gió ở Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu do Công ty EAB CHLB Đức làm chủ đầu tư, giá bán điện thoả thuận là 25 UScents/ kWh. Dự án đang chuẩn bị tiến hành xây dựng.
Tại tỉnh Bạc Liêu, một dự án điện gió khác thuộc công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Công Lý cũng đang trong giai đoạn lắp đặt các tuabin gió (1 tuabin gió đã được lắp đặt) với công suất 16 MW trong giai đoạn đầu (10 tuabin gió x 1.6 MW mỗi tuabin của hãng GE Mỹ). Dự kiến trong giai đoạn 2 của dự án công suất sẽ nâng lên 120 MW (từ năm 2012 đến đầu năm 2014). Ngoài ra, các dự án khác đang trong các giai đoạn tiến độ khác nhau của dự án và danh sách các dự án điện gió đang vận hành và đăng ký ở Việt Nam.
Tại Ninh Thuận, ngoài dự án mới kí kết với Timur, tỉnh này cũng đã cho lập Dự án nhà máy điện gió có công suất 200 MW, đầu tư xây dựng một nhà máy sản xuất thiết bị điện gió, có tổng vốn đầu tư khoảng 500 triệu USD tại hai xã Lợi Hải và Bắc Phong, huyện Thuận Bắc, trên diện tích 900 ha. Dự án nhà máy điện năng lượng tái tạo Phước Nam Enfinity (Bỉ) có công suất 124,5 MW. Dự án phát triển điện bằng năng lượng gió này có tổng vốn đầu tư 5.200 tỷ đồng, triển khai trên diện tích 553 ha tại huyện Thuận Nam.
Về thị trường cung cấp tuabin gió ở Việt Nam: ngoài một số các nhà cung cấp đã góp mặt trong các dự án như Fuhrlaender (CHLB Đức), Vestas (Đan Mạch), và GE (Mỹ), còn có các nhà cung cấp khác cũng đang thể hiện sự quan tâm đến thị trường Việt Nam như Gamesa (Tây Ban Nha), Nordex (CHLB Đức), IMPSA (Agentina), Sany, Shanghai Electric và GoldWind (Trung Quốc)
Một tín hiệu đáng mừng, đó là sự góp mặt của một số nhà máy sản xuất tuabin gió và cột cho tuabin gió (wind tower) như: ở khu vực phía Bắc, Tập đoàn GE Mỹ có nhà máy sản xuất máy phát cho tuabin gió đặt tại khu công nghiệp Nomura, thành phố Hải Phòng (vốn đầu tư lên tới 61 triệu USD); Công ty TNHH một thành viên tháp UBI16 (UBI Tower Sole Membe Co., Ltd.; 100% vốn của Việt Nam) đặt ở xã Kim Xuyên, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Năng lực sản xuất hàng năm của công ty là 300 cột tháp và được xuất khẩu ra các thị trường Đức (15 cột tháp năm 2011), Ấn Độ (35 cột tháp năm 2010 và 125 cột tháp năm 2011) và các nước khác.
Khu vực phía Nam, Công ty Fuhrlaender Đức cũng đang dự định xây dựng nhà máy sản xuất tuabin gió ở Bình Thuận (vốn đầu tư là 25 triệu USD); Công ty TNHH CS Wind Tower14 (100% vốn đầu tư của Hàn Quốc) ở khu công nghiệp Phú Mỹ 1, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, đang sản xuất và xuất khẩu tháp gió. Công ty TNHH Công nghiệp Nặng VINA HALLA15 (100% vốn đầu tư của Hàn Quốc) ở khu công nghiệp Mỹ Xuân B1, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Năng lực sản xuất hàng năm của công ty là khoảng 400 tháp gió và được xuất khẩu đi các thị trường như Hàn Quốc, Nhật Bản, Ý, Bỉ, Brazil, Hoa Kỳ, cung cấp cho các dự án ở Hàn Quốc, Ả Rập Saudi, Ai Cập, Indonesia, Philippines, Hoa Kỳ, và Việt Nam.
Nhà nước có nên trợ vốn?
Một nghiên cứu của Dự án Năng lượng Gió GIZ/MoIT do Viện Năng lượng thực hiện tính toán các phương án suất đầu tư cơ sở cho một dự án điện gió dựa trên các thông số đầu vào cơ bản (như quy mô dự án là 30 MW, vận tốc gió trung bình 7 m/s, vốn sở hữu 30% và vốn vay 70% với mức lãi suất vay 10%, mức giá cho phát thải khí CO2 là xấp xỉ 01 US cent/ kWh, etc) và công nghệ của từng nước. Kết quả cho thấy, đối với các công nghệ của Mỹ và Châu Âu đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn IEC (International Electrotechnical Commission, Hội đồng Kỹ thuật Điện Quốc tế) chi phí đầu tư ước tính khoảng 2.250 USD/ kW với giá điện bình quân quy dẫn (levelized cost) là khoảng 10,68 US cents/ kWh.
Trong khi đó, đối với công nghệ Trung Quốc thì suất đầu tư là 1.700 USD/ kW với giá điện bình quân quy dẫn là khoảng 8,6 US cents/ kWh. Tính toán này với thời gian hoàn vốn của dự án được giả thiết khoảng 20 năm và thời gian khấu hao thiết bị là 12 năm. Như vậy, trường hợp các nhà đầu tư bán được quyền phát thải thêm 01 US cent/ kWh, cộng với mức giá 7,8 US cents/ kWh thì tổng giá thành điện gió là 8,8 UScents/ kWh24. Với giá thành điện gió của các công nghệ trên thì việc lựa chọn công nghệ nào với giá thành điện gió hiện này là 8,8 US cents/ kWh vẫn còn là một câu hỏi lớn. Trong suất đầu tư cho một dự án điện gió, giá thành của tuabin chiếm khoảng 70 – 80%, còn lại là các chi phí khác như xây dựng móng, bảo trì và làm mới đường vận chuyển, lắp đặt cột và tuabin, thiết lập hệ thống điện nội bộ và đấu nối điện, thuê tư vấn và một số các chi phí phụ khác.
Một nghiên cứu đề xuất gần đây cho rằng, Nhà nước vẫn nên hỗ trợ điện gió thông qua Quỹ bảo vệ Môi trường Việt Nam, nhưng thay vì dựa vào ngân sách nhà nước thì sẽ thu trực tiếp từ khách hàng sử dụng điện thông qua hoá đơn của các công ty điện (một hình thức được sử dụng rộng rãi ở các nước). Nghiên cứu này đưa ra mức trợ giá của Nhà nước từ 1 – 4 UScents/ kWh thì tương ứng mỗi hộ sẽ trả thêm vào hoá đơn điện hàng tháng là 1.666 – 6.666 đồng/ tháng, dựa theo tổng công suất điện gió được đề ra trong Quy hoạch Điện VII là 1,000 MW vào năm 2020.
Nhiều cơ chế tài chính cho đầu tư điện gió
Mặc dù còn những trở ngại trong cơ chế giá điện gió, nhưng gần đây, các tổ chức tài chính quốc tế như: Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC), Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW), Quỹ Dragon Capital và một số ngân hàng khác đã bắt đầu quan tâm đến điện gió ở Việt Nam.
Cụ thể, Ngân hàng Thế giới (WB) đã cấp khoản tín dụng cho Dự án Phát triển Năng lượng Tái tạo (REDP) trong khoảng thời gian 2009-2014. Dự án sẽ cung cấp một khoản tín dụng tương đương 201,2 triệu USD thông qua các ngân hàng trong nước như: BIDV, Vietcombank, Sacombank, ACB và Techcombank để cho các nhà đầu tư dự án năng lượng tái tạo vay lại. Chỉ có các dự án năng lượng tái tạo có công suất lắp đặt không quá 30 MW với 100% điện được sản xuất từ nguồn năng lượng tái tạo được xem xét vay vốn. Mức vay tối đa không vượt quá 80% giá trị khoản vay từ ngân hàng thương mại tham gia cho nhà đầu tư và thời gian vay là tối thiểu 12 năm, thời gian ân/gia hạn không quá 3 năm.
Ngân hàng Tái thiết Đức KfW (CHLB Đức) cũng có một số chương trình cung cấp tài chính, như chương trình hoạt động bảo vệ khí hậu và môi trường (IKLU). Đã có thoả thuận của chính phủ Đức thông qua KfW hỗ trợ khoản cho vay 35 triệu USD cho dự án phong điện Thuận Bình, thuộc EVN. Liệu dự án có được vay hay không phụ thuộc vào kết quả đánh giá từ phía KfW.
Quỹ đầu tư Dragon Capital cũng thành lập Quỹ Phát triển Sạch Mekong Bhahmaputra đầu tư vào lĩnh vực năng lượng sạch, chương trình tiết kiệm năng lượng và xử lý môi trường với số vốn giai đoạn đầu là 45 triệu USD (khoảng 100 triệu USD trong giai đoạn tiếp theo). Quỹ có thể cung cấp khoản tài chính khoảng 7 triệu USD.
Trong nước, Ngân hàng phát triển Việt Nam (VDB) có nhiều chương trình tài chính cho các dự án năng lượng tái tạo, cho vay đầu tư phát triển trung và dài hạn, hoặc cho vay lại các khoản vốn ODA của chính phủ, của các ngân hàng quốc tế hợp tác. Là một ngân hàng nhà nước có số vốn điều lệ lên tới 10.000 tỷ đồng (khoảng gần 500 triệu USD) và chịu sự giám sát trực tiếp bởi Bộ Tài Chính. Mức vốn cho vay tối đa là 85% tổng vốn đầu tư dự án và thời gian vay tối đa là 20 năm với 5 năm ân hạn.
Gần đây VDB đã ký kết một hợp tác với Ngân hàng Xuất – Nhập khẩu Mỹ (US EXIMBANK) cho khoản tín dụng lên đến 1 tỷ USD cho chương trình phát triển dự án điện gió ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long (Mekong River Delta) trong giai đoạn 2011-2015, và US EXIMBANK cam kết bảo lãnh cho VDB để vay từ các ngân hàng quốc tế khác sau đó cho các dự án điện gió vay lại. Dự án điện gió Bạc Liêu, do chủ đầu tư là Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Công Lý, là dự án đầu tiên ở khu vực này đã đang được vay nguồn tín dụng ưu đãi của chương trình hợp tác này với một lãi suất ưu đãi 5,4% trên năm. Tuy nhiên, khi tiếp cận với khoản vay này các nhà đầu tư điện gió phải cam kết sẽ sử dụng công nghệ điện gió của Mỹ.