Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại buổi họp báo công bố Bộ chỉ tiêu đánh giá mức độ phát triển doanh nghiệp cả nước và các địa phương năm 2017 diễn ra sáng 13/10, tại Hà Nội, hiện nay, khu vực doanh nghiệp đóng góp lớn nhất vào quy mô phát triển của nền kinh tế, chiếm trên 60% trong GDP của toàn bộ nền kinh tế.
Tính bình quân giai đoạn 2010-2017, số doanh nghiệp thực tế hoạt động tăng 10,5%/năm; số lao động thu hút làm việc trong khu vực doanh nghiệp tăng 5,9%/năm; vốn sản xuất kinh doanh tăng 15,4%/năm; doanh thu tăng 15,6%/năm; lợi nhuận tăng 13,7%/năm và đóng góp cho ngân sách nhà nước tăng 12,4%/năm.
Tính đến thời điểm ngày 1/7/2018, cả nước có 702.710 doanh nghiệp đang tồn tại thuộc diện quản lý thuế của Tổng cục Thuế. Trong số đó, có 674.759 doanh nghiệp tồn tại có báo cáo tài chính hoặc không có báo cáo tài chính nhưng Tổng cục Thống kê điều tra được; 27.951 doanh nghiệp có trong danh sách quản lý của thuế nhưng không có báo cáo tài chính và Tổng cục Thống kê không xác minh được.
Trong tổng số 674.759 doanh nghiệp có 560.417 doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh hoặc có chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh; có 80.948 doanh nghiệp đang tồn tại nhưng không có kết quả sản xuất kinh doanh (doanh thu bằng không và không phát sinh chi phí sản xuất, chỉ có chi phí để duy trì doanh nghiệp, như: nộp thuế môn bài…); có 33.394 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ giải thể.
Ông Nguyễn Bích Lâm-Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho hay: Xét theo khu vực kinh tế, khu vực dịch vụ hiện có số lượng doanh nghiệp đang hoạt động nhiều nhất, đồng thời là khu vực có tốc độ tăng số doanh nghiệp hoạt động cao nhất trong các khu vực kinh tế.
Cụ thể, tại thời điểm ngày 31/12/2017, số doanh nghiệp đang hoạt động của khu vực dịch vụ là 390.765 doanh nghiệp, tăng 10,3% so với cùng thời điểm năm 2016; khu vực công nghiệp và xây dựng là 164.189 doanh nghiệp, tăng 12,2%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có số lượng doanh nghiệp hoạt động rất ít với 5.463 doanh nghiệp, tăng 22,8%.
Cũng theo ông Lâm, nhìn nhận từ góc độ loại hình doanh nghiệp, tại thời điểm ngày 31/12/2017, khu vực doanh nghiệp nhà nước (bao gồm doanh nghiệp 100% vốn nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước chiếm trên 50%) có 2.486 doanh nghiệp thực tế đang hoạt động, giảm 6,6% so với năm 2016; khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước có 541.753 doanh nghiệp, tăng 10,9%; khu vực FDI có 16.178 doanh nghiệp, tăng 15,5%.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, để khu vực doanh nghiệp tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế, Chính phủ, các bộ ngành và địa phương cần khẩn trương nghiên cứu và thực hiện đồng bộ các giải pháp.
Thứ nhất, rà soát, bổ sung và hoàn thiện thể chế, khẩn trương cắt giảm thực chất điều kiện kinh doanh đang là rào cản đối với hoạt động của doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh cá thể; đẩy mạnh cải cách hành chính, thực thi hiệu quả thủ tục một cửa tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp thành lập và phát triển, đồng thời cũng rà soát các thủ tục liên quan đến giải thể, phá sản doanh nghiệp bảo đảm nhanh và hiệu quả…
Thứ hai, nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp trong nước bằng thực hiện đồng bộ các giải pháp trong đó tập trung trước mắt vào đầu tư xây dựng hạ tầng góp phần giảm chi phí cho doanh nghiệp; đẩy mạnh nghiên cứu khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, hình thành các trung tâm nghiên cứu và đổi mới sáng tạo để chuyển giao công nghệ cho khu vực doanh nghiệp.
Thứ ba, cần nghiên cứu thấu đáo nội hàm của cách mạng công nghiệp 4.0 từ đó định hướng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận tài chính, tín dụng, có chính sách thuế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp trong nước.
Thứ tư, cần khai thác cơ hội của cách mạng công nghiệp 4.0, xu hướng chuyển dịch dòng vốn quốc tế, các hình thức đầu tư mới để tạo dựng tối đa lợi thế của Việt Nam chủ động thu hút các nhà đầu tư nước ngoài hàng đầu thế giới, từ các nước nắm giữ công nghệ nguồn, có năng lực quản trị hiện đại, năng lực cạnh tranh cao để đầu tư vào Việt Nam. Chính phủ có chiến lược và giải pháp khuyến khích, thúc đẩy và hỗ trợ doanh nghiệp trong nước liên doanh, liên kết, chuyển giao công nghệ với doanh nghiệp FDI, đẩy mạnh công nghiệp phụ trợ để doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi liên kết của doanh nghiệp FDI.
Thứ năm, cần đổi mới phương thức, chương trình đào tạo, kết hợp giữa lý thuyết và thực hành gắn với các mạng công nghiệp 4.0.
Những “ông lớn” FDI in đậm dấu chân trong nền kinh tế Việt Nam
Tập đoàn Intel (Mỹ) là ông lớn đầu tiên đặt dự án “tỷ đô” tại Việt Nam. Đầu năm 2006, Intel công bố dự án đầu tư 300 triệu USD để xây dựng cơ sở mới, bao gồm Nhà máy lắp ráp và kiểm định chip tại Khu công nghệ cao TPHCM. Đến tháng 11/2006, Intel Products Vietnam chính thức công bố tăng quy mô nhà máy từ 14.000 m2 lên 46.000 m2, đồng thời nâng tổng mức đầu tư lên 1 tỷ USD. Thời điểm đó, Nhà máy lắp ráp và kiểm định chip tại Việt Nam là nhà máy lớn nhất thế giới của Intel. Đối với Việt Nam, đây cũng là dự án FDI lớn nhất thời điểm đó trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Sau 3 năm triển khai xây dựng, Nhà máy này đi vào hoạt động và tới cuối năm 2014, công ty đã mở rộng nhà máy với dây chuyền sản xuất CPU bổ sung. Nhà máy này đóng một vai trò quan trọng trong sự thành công của Intel, trở thành nguồn cung cấp những sản phẩm Intel tới các thị trường trên thế giới với số lượng lớn.
Năm 1996, khi bắt đầu vào Việt Nam chỉ với một liên doanh quy mô nhỏ. Sau 1 năm, năm 1997 Samsung thực hiện dự án với vốn đầu tư 650 triệu USD để sản xuất điện thoại di động, máy tính bảng. Đến năm 2009, Samsung bắt đầu đầu tư quy mô lớn với các dự án sản xuất điện thoại, sản phẩm điện tử gia dụng như tivi, máy điều hóa nhiệt độ, máy giặt… và đến nay tổng vốn đăng ký của Samsung tại Việt Nam đã lên tới hơn 17 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện khoảng 10 tỷ USD. Hiện Samsung có 6 nhà máy tại Bắc Ninh, Thái Nguyên và TPHCM, tạo việc làm cho gần 140.000 lao động. Tại Hà Nội, Samsung thành lập Trung tâm R&D quy mô lớn, hiện có trên 1.600 kỹ sư trẻ của Việt Nam đang làm việc trong điều kiện công nghệ hiện đại, phương thức nghiên cứu tiên tiến và môi trường làm việc
văn minh.
Nói đến các “ông lớn” FDI tại Việt Nam không thể không nhắc tới Honda, một tập đoàn lớn đến từ Nhật Bản. Đầu tư vào Việt Nam cách đây 20 năm, đến nay tổng vốn đầu tư vào Việt Nam của Honda là khoảng 530 triệu USD. Được thành lập từ năm 1996, Honda Việt Nam là liên doanh của 3 đối tác gồm Honda Motor nắm giữ 42% cổ phần; Asian Honda Motor nắm giữ 28% cổ phần và Tổng công ty Máy động lực và Máy nông nghiệp Việt Nam (VEAM) nắm giữ 30% cổ phần. Số liệu của Hiệp hội Các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) cho biết sản lượng ô tô bán ra của Honda Việt Nam trong năm 2015 đã tăng trưởng 28% lên 8.300 xe. Tuy nhiên, doanh thu Honda tăng mạnh chủ yếu vẫn đến từ mảng kinh doanh truyền thống là xe máy.
Cũng theo thống kê của VAMA, số lượng xe máy bán ra trong năm 2015 đạt 2,85 triệu chiếc, trong đó, Honda bán được khoảng 2 triệu xe máy các loại, tăng 4,56% so với năm 2014 và chiếm tới 70% thị phần xe máy Việt Nam. Sau thành công của nhà máy đầu tiên, Honda tiếp tục đầu tư xây dựng nhà máy thứ hai với công suất ban đầu là 500.000 xe máy/năm, được khánh thành năm 2008 với vốn đầu tư 65 triệu USD. Được biết hiện nhà máy này đã tăng công suất lên 1 triệu chiếc/năm. Sau đó, nhà máy thứ ba ở Hà Nam công suất 500 nghìn xe/năm được khánh thành vào cuối năm 2014 với vốn đầu tư 120 triệu USD. Nhờ doanh thu tăng mạnh cũng giúp Honda Việt Nam đạt lợi nhuận lớn. Năm 2015, lợi nhuận trước thuế của Honda là 11.780 tỷ đồng tương ứng tỷ suất lợi nhuận 17%. Đây cũng là năm thứ 2 liên tiếp Honda Việt Nam đạt lợi nhuận trên 10.000 tỷ đồng.
Cũng là người đồng hành với Việt Nam trong lĩnh vực ô tô xe máy, đến nay Tập đoàn Toyota đã đầu tư vào Việt Nam 22 năm. Được biết, trong quá trình 22 năm qua, tổng sản lượng cộng dồn của Toyota là 428.000 xe ô tô, Tập đoàn này cũng đã đóng góp cho ngân sách Việt Nam gần 7 tỷ USD, riêng năm 2017 Toyota đóng góp gần 900 triệu USD. Hiện nay các dự án của Toyota thu hút gần 2.000 lao động vào làm việc.
Trong lĩnh vực số hóa và năng lượng, ông lớn Siemens (Đức) chính thức hiện diện tại Việt Nam vào năm 1993 tại nhiều dự án cơ sở hạ tầng quan trọng của Việt Nam như điện khí, quản lý điện năng, cơ khí, y tế, hệ thống vận chuyển, công nghệ tòa nhà,… Đặc biệt, hiện Siemens cũng là một trong các đối tác quốc tế của dự án sản xuất ô tô VINFAST do Tập đoàn Vingroup khởi công ngày 2/9/2017. Cụ thể, Siemens sẽ đồng hành cùng Vingroup trong việc xây dựng khối văn phòng nhà máy và Trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D). Đối với nhà máy sản xuất ô tô, Siemens sẽ cùng Vingroup xây dựng mô hình nhà máy số hiện đại của VINFAST theo mô hình mà các nhà máy ô tô nổi tiếng trên thế giới như Mercedes, BMW, Maserati, Ford, Volkswagens… đã và đang áp dụng.
Cùng với các Tập đoàn lớn nêu trên, Việt Nam cũng đã lần lượt thu hút được các dự án đầu tư lớn từ các công ty đa quốc gia khác như Forrmosa, Canon, Ford, Posco, Nokia/Microsoft, LG…
Về cơ hội thu hút các DN FDI đầu tư vào Việt Nam, theo ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), điều tra các DN FDI của VCCI cho thấy nhiều kết quả lạc quan. Niềm tin kinh doanh của các DN FDI lên cao, gánh nặng qui định giảm, tình trạng tham nhũng và quan hệ lao động được cải thiện. Còn ông Denis Brunetti, đồng Chủ tịch Hiệp hội DN châu Âu tại Việt Nam cho biết, Việt Nam là điểm đến trong tầm ngắm của các nhà đầu tư châu Âu, trong đó có những DN đã có mặt tại Việt Nam nhiều năm qua đã và đang có ý định mở rộng đầu tư tại Việt Nam với những bước đi và giải pháp đúng đắn.
Chuyển giao công nghệ của FDI cho doanh nghiệp nội chưa tương xứng
Đánh giá về tác động lan tỏa của FDI đến doanh nghiệp trong nước, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng, mức độ tác động tích cực còn thấp, chủ yếu là nhờ khả năng cạnh tranh, học hỏi, mua máy móc kèm chuyển giao công nghệ, trong khi lan tỏa thông qua liên kết sản xuất, tham gia vào chuỗi cung ứng của DN trong nước còn yếu.
Theo báo cáo của CIEM, tác động lan tỏa của FDI thường được xem xét theo 4 kênh căn bản, gồm: tác động do tương tác đầu ra -đầu vào giữa DN FDI và DN trong nước, xuất hiện nhờ liên kết xuôi hoặc/và liên kết ngược; tác động nhờ phổ biến và chuyển giao công nghệ giữa DN FDI và DN trong nước; tác động nhờ học hỏi, vận dụng các phương pháp quản lý hiệu quả dẫn đến tăng năng lực cạnh tranh; và tác động nhờ nâng cao trình độ lao động trong quá trình được đào tạo và học hỏi kiến thức, kỹ năng từ DN FDI.
Theo CIEM, theo một số nghiên cứu định lượng, FDI được thu hút vào Việt Nam đã có tác động lan tỏa tích cực đến thúc đẩy đổi mới, chuyển giao công nghệ, qua đó giúp cải thiện năng suất của DN trong nước.
“Tuy vậy, mức độ tác động tích cực còn thấp, chủ yếu là nhờ khả năng cạnh tranh, học hỏi, mua máy móc kèm chuyển giao công nghệ, trong khi lan tỏa thông qua liên kết sản xuất, tham gia vào chuỗi cung ứng của DN trong nước còn yếu. Đây cũng là nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế trong việc nhận được tác động lan tỏa từ khu vực FDI”, báo cáo của CIEM nhấn mạnh.
Phân tích cụ thể về thực trạng đổi mới, chuyển giao công nghệ và liên kết sản xuất qua kênh FDI, CIEM cho biết, thứ hạng về công nghệ và đổi mới sáng tạo của Việt Nam tuy có cải thiện nhưng vẫn ở vị trí thấp.
Cụ thể, theo Báo cáo thường niên về năng lực cạnh tranh toàn cầu 2017-2018 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), Việt Nam xếp hạng 55 trên 137 quốc gia. Tuy nhiên, nhóm yếu tố được coi là điểm yếu lâu dài của Việt Nam, với điểm số, thứ hạng thấp và không cải thiện nhiều trong những năm qua bao gồm năng lực đổi mới sáng tạo của DN (xếp hạng 79), chất lượng nghiên cứu khoa học (xếp hạng 90), mức độ sẵn có của chuyên gia và kỹ sư (xếp hạng 78), số lượng và chất lượng nhà cung ứng địa phương (xếp hạng 105 và 116), độ rộng của chuỗi giá trị (xếp hạng 106).
Cũng theo CIEM, nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới năm 2017 cũng cho thấy so với các nước trong khu vực, DN Việt Nam nỗ lực cải tiến sản phẩm và quy trình sản xuất nhưng hiếm khi giới thiệu sản phẩm mới có chức năng hoàn toàn mới so với các sản phẩm hiện có trên thị trường.
Bên cạnh đó, số lượng hợp đồng chuyển giao công nghệ ở Việt Nam còn hạn chế. Theo Hiệp hội DN FDI trong 2015, phần lớn hợp đồng chuyển giao công nghệ được thực hiện dưới hình thức chuyển giao từ công ty mẹ sang công ty con tại Việt Nam, chưa có hợp đồng nào thực hiện chuyển giao từ DN FDI sang DN trong nước. Theo CIEM, trên thực tế, khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế còn hạn chế do hầu hết công nghệ trong dự án FDI đã sử dụng phổ biến ở chính quốc. Mức độ tiên tiến và hiện đại của công nghệ chuyển giao vào Việt Nam rất thấp.
“Kết quả từ nhiều khảo sát với DN FDI cho thấy nhiều máy móc, công nghệ nhập vào Việt Nam không phải công nghệ mới, thậm chí hết khấu hao, và lao động Việt Nam chỉ phụ trách công đoạn đơn giản. Đến nay, chỉ có 5% DN FDI chuyển giao công nghệ cao, 15% công nghệ kém, lạc hậu và đòi hỏi lao động giản đơn. Nhìn chung, mức độ chuyển giao công nghệ của khu vực FDI cho khu vực DN trong nước chưa tương xứng với vai trò và tiềm năng”, báo cáo của CIEM nhận định.
Suri Nguyễn
Related posts
Bài viết mới
SPS – Smart Production Solutions Quảng Châu 2024 nhận được phản hồi tích cực
SPS – Giải pháp sản xuất thông minh Quảng Châu đã kết thúc thành công vào ngày 6 tháng 3…
Mitsubishi Electric thiết lập mối quan hệ đối tác với Software Developer ModuleWorks
Tập đoàn Mitsubishi Electric mới đây đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, cũng như đầu tư vào…