Tài nguyên khoáng sản không nhiều, trữ lượng thấp nhưng những năm qua Việt Nam lại khai thác quá mức. Điều đáng nói là hiệu quả kinh tế thấp, lỗ triền miên… Việc thất thoát tài nguyên và hệ quả ô nhiễm môi trường từ công nghệ khai thác lạc hậu đang đặt ra những thách thức lớn cho ngành công nghiệp khai khoáng. Và nếu không thay đổi, minh bạch trong quản lý, cấp phép, khai thác và giám sát, các nguồn tài nguyên sẽ cạn kiệt, ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng hơn.
Ồ ạt cấp phép
Theo số liệu của Tổng hội Địa chất Việt Nam, cả nước hiện có 5.000 điểm mỏ khai thác 60 loại khoáng sản. Trong đó, trữ lượng dầu khí có khả năng thương mại 814,7 triệu tấn; bể than Quảng Ninh trên 3 tỷ tấn; urani khoảng 218.000 tấn; bauxit Tây nguyên khoảng 2,1 tỷ tấn,; đất hiếm 10 triệu tấn; quặng titan hàng trăm triệu tấn; wolfram 110,2 triệu tấn; crom 22 triệu tấn, apatit 900 triệu tấn…
Nhiều năm gần đây ngành khai thác khoáng sản tăng trưởng nhanh chóng về quy mô. Năm 2012 Việt Nam đứng thứ 7 thế giới về khai thác dầu thô ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương; đóng góp 2,3% tổng sản lượng khai thác thiếc, 1,8% tổng sản lượng xi măng thế giới. Nghịch lý ở chỗ Việt Nam không phải là quốc gia giàu tài nguyên khoáng sản. Nếu tính toán trữ lượng theo tiêu chuẩn của thế giới, khoáng sản của Việt Nam ít về trữ lượng và thiếu về chủng loại. Với tốc độ khai thác hiện nay, Việt Nam sẽ cạn kiệt tài nguyên khoáng sản trong tương lai gần.
Theo đánh giá của Bộ Tài nguyên – Môi trường, tình trạng cấp phép khai thác khoáng sản thời gian qua diễn ra tràn lan. Tính đến giữa năm 2013 cả nước có 503 giấy phép khai khoáng do cơ quan Trung ương cấp, 4.200 giấy phép do UBND các tỉnh, thành phố cấp còn hiệu lực. Kết quả kiểm tra 957 giấy phép khai thác khoáng sản do địa phương cấp, có 50% giấy phép được cấp không đúng quy định. Việc thiếu quy hoạch tổng thể và cấp phép tràn lan đã dẫn đến tình trạng khai thác bừa bãi, dùng công nghệ lạc hậu làm tổn hao khoáng sản.
Luật Khoáng sản 2010 khuyến khích đầu tư chế biến sâu khoáng sản trước khi xuất khẩu, nhưng hầu hết doanh nghiệp khai khoáng chủ yếu lọc quặng và tinh quặng rồi xuất thô, nên ít tạo ra giá trị gia tăng. Tổn thất trong khai thác chế biến khoáng sản ở Việt Nam rất cao, từ 40-60% đối với khai thác than, 26-43% đối apatit, 15-30% với quặng kim loại và 15-20% đối với vật liệu xây dựng. Tính toán của Tổng hội Địa chất Việt Nam cũng chỉ ra rằng số năm khai thác còn lại của các loại khoáng sản là rất ngắn, dầu khí còn 56 năm, bauxit 21 năm, thiếc 19 năm, chì, kẽm là 17 năm, vàng 21 năm…
Báo động hiệu quả đầu tư
Theo Bộ Tài chính, số thu thuế tài nguyên ngoài dầu khí chỉ đạt 0,9-1,2% tổng thu ngân sách trong giai đoạn 2011-2014. Có địa phương cấp 200 giấy phép khai thác khoáng sản nhưng thu thuế tài nguyên không đạt 4 tỷ đồng. Số thu này thậm chí không đủ để chi phí hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác khoáng sản tại địa phương.
TS. Lê Ái Thục, Chủ tịch Hội Địa chất kinh tế Việt Nam, phân tích: “Hiệu quả đầu tư trong lĩnh vực khoáng sản hiện nay dường như không đủ cơ sở để đánh giá. Luật Khoáng sản quy định, khi đầu tư khai thác khoáng sản phải xét đến hiệu quả khai thác tài nguyên, hiệu quả kinh tế xã hội nhưng gần như không làm được. Về hiệu quả khai thác tài nguyên, ngay từ khâu đánh giá trữ lượng đã đánh giá không đúng. Đây là căn cứ để quyết định đầu tư, trên thế giới họ căn cứ vào trữ lượng, quy mô tài nguyên, đánh giá hiệu quả mới đi đến khai thác. Nhưng ở Việt Nam việc đánh giá trữ lượng tài nguyên khoáng sản không tuân thủ quy định đã ban hành. Vì thế, cơ sở quyết định đầu tư khai thác khoáng sản hầu như không có”.
Ông Thục lấy thí dụ mỏ sắt Thạch Khê (Hà Tĩnh) nói có trữ lượng 544 triệu tấn, tưởng quy mô lớn nhất Đông Nam Á nhưng thực tế không phải vậy. Bauxit Tây nguyên nói là trữ lượng 7-8 tỷ tấn có thể lên đến 10 tỷ tấn, nhưng thực tế chỉ vài trăm triệu tấn, còn lại là tiềm năng. Vì thế, khi quyết định đầu tư khai thác khoáng sản hiện đang có sự nhầm lẫn về con số. Thí dụ, năm 2014 và 2015, mỗi năm CTCP Sắt Thạch Khê phải đóng 114 tỷ đồng trong khi chưa thu được đồng nào từ nguồn khai thác. Năm 2016 phải nộp gấp đôi năm 2015, khoảng 450 tỷ đồng. Hiện Tập đoàn Than – Khoáng sản (TKV) đang xin hoãn nhưng nếu nộp cũng sẽ lấy tiền từ TKV, tức lấy ngân sách nộp lại ngân sách.
Theo nhiều chuyên gia, sự độc quyền khai thác quá lâu của DNNN đang làm giảm hiệu quả khai thác khoáng sản. Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước (TĐ, TCT) được quyền ưu tiên, được giao độc quyền khai thác tài nguyên khoáng sản. Như trong lĩnh vực dầu khí, các DN muốn tham gia khai thác các mỏ dầu, mỏ khí phải thông qua TĐ Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN), hay phải liên doanh với PVN. Ngay trong Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) cũng có riêng một phụ lục về việc khai thác dầu khí tại Việt Nam phải thông qua PVN, phân lô khai thác, thậm chí muốn thoái vốn khỏi các dự án dầu khí cũng phải thông qua PVN. Quy định như vậy trước hết để bảo vệ tài nguyên quốc gia, song nó cũng gây ra vấn đề trong độc quyền khai thác. Lĩnh vực khai thác than, TKV cũng có vị thế độc quyền, TĐ Hóa chất được quyền ưu tiên khai thác một loạt mỏ apatit (Lào Cai), hay vị trí thống lĩnh của TCT Vật liệu xây dựng trong khai thác vật liệu xây dựng, như khai thác một số mỏ đá quý.
Điều đáng chú ý trong khai thác tài nguyên khoáng sản, ngoại trừ lĩnh vực dầu khí, công nghệ khai thác lạc hậu và tỷ lệ thu hồi tài nguyên khoáng sản chưa cao. Nhiều báo cáo nghiên cứu đã chỉ ra rằng rất nhiều nguyên tố phụ trong các loại chất thải từ quá trình khai thác các mỏ lại được nước ngoài thu mua với giá rất rẻ về chế biến ra những nguyên tố rất quý. Chẳng hạn như chất thải từ khai thác than Quảng Ninh lại được một số đối tác Nhật Bản mua về để chế ra những nguyên tố rất quý hiếm. Trong rất nhiều trường hợp các DN khai khoáng thu hồi được không quá 30% khoáng sản khi khai thác và sự lãng phí rất lớn. Điều đáng lo ngại nữa là xuất khoáng sản thô, dù Luật Khoáng sản 2010 đã cấm xuất khoáng sản thô nhưng tình trạng này vẫn tiếp tục kéo dài và chưa khắc phục kịp thời.
Minh bạch quản trị tài nguyên
Hiện nay, có thể nói tính công khai, minh bạch trong khai thác khoáng sản rất thấp, chẳng hạn như mỏ giá trị bao nhiêu, khai thác như thế nào, nộp ngân sách bao nhiêu không rõ ràng. Theo GS. Nguyễn Quang Thái, Tổng Thư ký Hội Khoa học kinh tế Việt Nam, tài nguyên khoáng sản của quốc gia phải được quản lý thống nhất, và tiền thuế thu được từ khoáng sản đó cần được trích lập thành một quỹ không phải để mang ra tiêu, tăng lương, xây trụ sở mà phải đưa vào quỹ tái tạo tài nguyên môi trường. Tuy nhiên, vị này cũng thừa nhận quản lý tài nguyên khoáng sản hiện đang buông lỏng, không chỉ với DNNN, gần đây mở rộng ra cho cả khu vực tư nhân. Mỏ vàng Bồng Miêu (Quảng Nam) có trữ lượng khoảng 12,4 tấn, đến nay TĐ Besra (Canada) khai thác khoảng 7 tấn vàng rồi, vẫn kêu lỗ và không biết số vàng khai thác này đã đi đâu. Tình trạng này cảnh báo về công tác quản lý, khai thác tài nguyên khoáng sản hiện nay đang có vấn đề.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần sớm áp dụng tiêu chuẩn quốc tế về quản trị tài nguyên thiên nhiên (EITI) để cải cách ngành công nghiệp khai khoáng, giảm tỷ lệ thất thoát tài nguyên khoáng sản. Thế giới hiện có 49 quốc gia đang áp dụng EITI. Nguyên tắc của EITI là công khai những thông tin cơ bản liên quan đến lĩnh vực khai thác khoáng sản gồm: cấp phép, dữ liệu sản xuất, DNNN, các nguồn thu chính, nguồn thu địa phương, quản lý nguồn thu, và tác động xã hội của hoạt động khai khoáng. Ngoài các nước phát triển như Anh, Hoa Kỳ, Na Uy… các nước chậm phát triển như Mông Cổ, Myanmar cũng đã áp dụng EITI, trong khi Việt Nam chưa làm.
Nhiều chuyên gia kinh tế đặt vấn đề, phải chăng có nhóm lợi ích ngăn cản việc áp dụng EITI trong những năm qua và đề nghị cần xem lại hoạt động cấp phép khai thác tài nguyên khoáng sản hiện nay và cần phải đưa ra Quốc hội xem xét quyết định những vấn đề lớn về tài nguyên quốc gia. Đồng thời, cần đẩy mạnh đấu giá quyền khai thác khoáng sản theo quy định của Luật Khoáng sản 2010 để minh bạch quá trình thẩm định trữ lượng, cấp phép quyền khai thác khoáng sản trong những năm tới.
Mai Thanh